Blog Thừa phát lại - Dù những gì Thừa phát lại quan sát và mô tả vào vi bằng là khách quan, trung thực nhưng cách thức thực hiện là vi phạm pháp luật thì vi bằng đó không có giá trị sử dụng.
Lập
vi bằng là một trong những chức năng của Thừa phát lại. Theo đó, Thừa phát lại sẽ
quan sát các sự kiện, hành vi và đôi khi là hiện trạng để và thể hiện trong vi
bằng. Hiện nay, tất cả các vi bằng đều có khách hàng của Thừa phát lại ký tên;
một số vi bằng có hình chụp Thừa phát lại và khách hàng. Vậy, Thừa phát lại có
thể tự mình lập vi bằng mà không cần khách hàng có mặt cùng với Thừa phát lại
hay không?
Bản chất hoạt động lập vi bằng
Lập
vi bằng thực chất là hoạt động làm chứng chuyên nghiệp; Thừa phát lại là một
người làm chứng khi làm công việc này.
Đặc
điểm của người làm chứng là phải khách quan, trung thực. Khách quan trong làm
chứng tức là chỉ đóng vai trò bên thứ ba độc lập, quan sát, chứng kiến sự việc
và mô tả lại đúng theo sự chứng kiến đó mà không bình luận, phán xét, không tác
động, can thiệp vào sự việc mà mình chứng kiến. Trung thực trong làm chứng
nghĩa là mô tả đúng sự thật, không thêm bớt dữ liệu mà mình chứng kiến. Bên cạnh
đó, cách thức, phương thức làm chứng cũng cần phải tuân thủ quy định pháp luật
để đảm bảo những thông tin chứng kiến là đáng tin cậy, sử dụng được và không bị
phản bác.
Các ví dụ minh họa
Tôi
sẽ nêu quan điểm của mình trả lời cho câu hỏi chủ đề thông qua một số ví dụ sau
đây. Đầu tiên đó là việc chủ một miếng đất chuẩn bị đào móng xây nhà nhưng sợ ảnh
hưởng đến nhà hàng xóm nên muốn Thừa phát lại đi vào nhà hàng xóm lập vi bằng
hiện trạng dù người hàng xóm này không đồng ý. Trong trường hợp này, nếu Thừa
phát lại thực hiện theo yêu cầu thì đã “xâm phạm chỗ ở” bất hợp pháp của người
khác. Do vậy, dù những gì Thừa phát lại quan sát và mô tả vào vi bằng là khách
quan, trung thực nhưng cách thức thực hiện là vi phạm pháp luật thì vi bằng đó
không có giá trị sử dụng.
Từ
điểm này, chúng ta thấy sự xuất hiện của một bên thứ ba khác là chủ tài sản hoặc
người đang quản lý, sử dụng hợp pháp tài sản và họ thể hiện sự cho phép Thừa
phát lại tiếp cận tài sản này để lập vi bằng là cần thiết (nếu đó là khách hàng
của Thừa phát lại thì họ (hoặc người được ủy quyền) phải có mặt cùng Thừa phát
lại. Ngoài trường hợp nêu trên thì lập vi bằng ghi nhận nội dung trong điện thoại,
việc truy cập một tài khoản email, zalo, facebook... cũng tương tự, cần sự có mặt
của chủ nhân chiếc điện thoại hoặc chủ nhân tài khoản. Tòa án nhân dân cấp cao
tại TP. Hồ Chí Minh đã từng từ chối sử dụng vi bằng vì khách hàng của Thừa phát
lại (là đại diện theo uỷ quyền của 1 công ty) đăng nhập email của một người mà nhưng
không xuất trình được văn bản uỷ quyền hợp pháp hoặc văn bản thoả thuận thể hiện
tài khoản email này thuộc quyền quản lý, sử dụng của Công ty[1].
Hình minh họa: TPL Đức Hoài đang lập vi bằng ghi nhận hiện trạng nhà ở |
Ví
dụ tiếp theo là Công ty A có cho chị Nhung thuê mặt bằng nhưng chị Nhung đang
trễ hạn thanh toán dẫn đến Công ty A thực hiện quyền chấm dứt hợp đồng. Công ty
A cử chị Thảo (nhân viên Công ty A) đi giao thông báo cho chị Nhung đồng thời Công
ty A yêu cầu Thừa phát lại lập vi bằng. Vậy Công ty A là người yêu cầu lập vi bằng
nhưng chị Thảo là người tham gia lập vi bằng (Công ty A có thể ủy quyền chị Thảo
yêu cầu lập vi bằng nhưng đó không phải là tình huống này). Như vậy, Thừa phát
lại có thể lập vi bằng giao thông báo mà không cần sự có mặt của khách hàng là
Công ty A/người đại diện theo pháp luật của Công ty A (với tư cách là người yêu
cầu).
Ví
dụ tiếp theo là việc Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận một bài báo công khai
trên mạng internet. Tuy đang có quan điểm rằng, Thừa phát lại không được thao
tác truy cập bài viết mà phải do khách hàng, người tham gia khác truy cập; còn
Thừa phát lại chỉ mô tả thao tác nhưng tác giả xin được phép được trao đổi vấn
đề này ở một bài viết khác. Như vậy, nếu chỉ nhìn về thao tác, Thừa phát lại chỉ
cần một máy tính có kết nối mạng internet là có thể lập vi bằng bài viết công
khai trên mạng và không cần khách hàng có mặt mà vẫn đảm bảo tính khách quan, trung
thực.
Một
số trường hợp khác, khách hàng Thừa phát lại không thể có mặt cùng địa điểm với
Thừa phát lại nhưng có tham gia vào quá trình lập vi bằng: Khách hàng đang ở Hà
Nội và yêu cầu Thừa phát lại Bến Thành (TP. Hồ Chí Minh) lập vi bằng cuộc họp
trên Ms Team về việc khách hàng họp với đối tác ở Nhật Bản; Khách hàng đề nghị
Thừa phát lại ghi nhận một cửa hàng đang trưng bày hàng hoá vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ…
Quan điểm đúc kết
Từ
những ví dụ trên, có thể thấy rằng, về mặt thao tác dù không cần khách hàng có
mặt, Thừa phát lại vẫn có thể thực hiện công việc làm chứng. Tuy vậy, phần mở đầu
của mẫu vi bằng hiện hành đang buộc có nội dung là vào thời gian, địa điểm nhất
định, các bên gồm Thừa phát lại, Người yêu cầu, Người tham gia... và phần kết
thúc vi bằng có nội dung “đã đọc lại cho mọi người nghe và nhất trí, cùng ký
tên”. Điều này được hiểu là người yêu cầu lập vi bằng (khách hàng) phải có
mặt cùng Thừa phát lại khi lập vi bằng; và chỉ có mặt thì mới có thể “nhất
trí nội dung vi bằng, ký tên”; không có mặt tại sự kiện, hành vi lập vi bằng
cùng Thừa phát lại thì sao có thể biết sự việc mà “nhất trí nội dung vi bằng,
ký tên”!?
Đây
là sự vênh nhau giữa lý luận, thực tiễn và pháp luật khi tìm lời giải cho việc
Thừa phát lại có cần khách hàng có mặt khi lập vi bằng. Về quan điểm cá nhân,
tác giả cho rằng, Thừa phát lại có thể lập vi bằng mà không cần khách hàng (và
những người tham gia khác) có mặt cùng Thừa phát lại nếu đáp ứng hai điều kiện:
(1)
Sự kiện, hành vi cần lập vi bằng diễn ra ở khu vực công cộng mà Thừa phát lại
có thể tiếp cận, không cần sự cho phép của ai; và
(2)
Không cần khách hàng có mặt thì với nghiệp vụ đơn thuần của mình, Thừa phát lại
vẫn ghi nhận được những sự kiện, hành vi mà khách hàng đang mong muốn.
Trường
hợp điển hình đáp ứng hai điều kiện trên là ghi nhận nội dung bài báo công khai
trên mạng internet; Ghi nhận hiện trạng một bảng hiệu quảng cáo ngoài trời...
Với
quan điểm như vậy, tác giả đề xuất sửa đổi mẫu vi bằng để phù hợp với bản chất
công việc làm chứng. Cụ thể, bỏ dòng chữ “Chúng tôi gồm” ở phần đầu mẫu vi bằng
và chỉ ghi nhận việc Thừa phát lại có mặt ở thời gian địa điểm nào, theo yêu cầu
của ai và đã chứng kiến sự việc gì; đồng thời chỉ Thừa phát lại ký tên, cam
đoan về tính khách quan, trung thực của vi bằng do mình lập.
[1] Bản án 29/KDTM-PT ngày 30/06/2020 về tranh chấp hợp đồng dịch vụ giữa Nguyên đơn là Công ty CLS S.R.L và Bị đơn là Công ty Cổ phần G.L do Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử ngày 30 tháng 6 năm 2020
0 Nhận xét