Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ? Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ?

Điều kiện để vi bằng internet-dữ liệu điện tử có giá trị chứng cứ?

Blog Thừa phát lại - Trong trường hợp Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận một người truy cập vào email của người khác mà không được sự uỷ quyền hợp pháp của người này thì được coi là vi phạm bí mật đời tư nên Vi bằng không có giá trị pháp lý để xem xét.

    Về lý luận, những gì đáp ứng được thuộc tính khách quan, liên quan và hợp pháp thì được xem là chứng cứ. Các nhà làm luật chuyển ngữ các thuộc tính này vào quy định pháp luật.

    Ví dụ, Điều 93 Luật tố tụng dân sự quy định: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.

    Tính khách quan

    Việc hình thành một sự kiện, tình tiết có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân (trong đó hành vi con người), nhưng một khi sự kiện, hiện tượng, tình tiết đó đã ra đời và được coi là chứng cứ, thì nó tồn tại một cách khách quan với ý thức, tác động của con người (kể cả người đã tạo ra nó).

    Mọi sự tác động của con người đều có khả năng làm thay đổi các thông tin, tài liệu, đồ vật nên sẽ không đảm bảo sự khách quan.

    Áp dụng vào việc lập vi bằng internet và thiết bị điện tử, Thừa phát lại phải đảm bảo rằng, các thông tin được phát hiện trong vi bằng không bị can thiệp, tác động thay đổi từ các thao tác Thừa phát lại hoặc người khác.

    Ví dụ, khách hàng đề nghị Thừa phát lại lập vi bằng nội dung website bị cơ quan có thẩm quyền/chủ sở hữu chặn các máy tính/mạng có địa chỉ IP tại Việt Nam xem. Thừa phát lại cố tình thay đổi địa chỉ IP máy tính để có thể truy cập trang. Việc này không đảm bảo sự khách quan của thông tin trang web được thu thập.

    Ví dụ, khi lập vi bằng ghi nhận bài báo online, Thừa phát lại chụp hình bài báo nhưng đã loại bỏ một số phần của bài báo (mà không nêu rõ trong vi bằng) hoặc Thừa phát lại đã thay đổi link liên kết dẫn đến bài viết.

    Ví dụ, khi lập vi bằng trích xuất file ghi âm từ thiết bị USB, Thừa phát lại sử dụng phần mềm để cắt bớt 1 số phần trong file ghi âm gốc và ghép các phần còn lại thành 1 file ghi âm mới rồi mới lập vi bằng.

    Ví dụ, khi lập vi bằng trên youtube, Thừa phát lại và khách hàng đã tự ý sửa lượt xem của video, đưa vào vi bằng.

    Tính liên quan

    Tính liên quan của chứng cứ được thể hiện ở chỗ nó phải có mối liên hệ với các sự kiện cần chứng minh trong vụ việc, dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án mới là chứng cứ.

    Ví dụ, vi bằng ghi nhận một tài khoản (không xác định được danh tính) nói xấu anh A thì anh A không thể sử dụng được vi bằng đó để khởi kiện dân sự anh B.

    Ví dụ, anh A muốn chứng minh sự việc mình đã giao tiền đặt cọc mua nhà 100 triệu cho chị B (giao tiền mặt, không có giấy tờ) nên đề nghị Thừa phát lại lập vi bằng trích xuất một đoạn ghi âm liên quan đến việc anh A nói chuyện với chị B. Tuy vậy, đoạn ghi âm không có từ nào thể hiện việc chị B trực tiếp hoặc gián tiếp xác nhận đã nhận cọc 200 triệu của anh A.

    điều kiện vi bằng có hiệu lực chứng cứ
    Thừa phát lại Đức Hoài đang lập vi bằng ghi nhận tin nhắn zalo

    Tính hợp pháp

    Nghĩa là cách thức thu thập chứng cứ được thực hiện đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Vi bằng là một loại văn bản ghi nhận, xác nhận hành vi, sự kiện pháp lý do người có chức năng lập và trở thành chứng cứ nếu được lập đúng trình trình tự, thủ tục do pháp luật quy định (khoản 9 Điều 95 BLTTDS 2015, khoản 9 Điều 82 BLTTHC 2015).

    Để đảm bảo giá trị chứng cứ, trong quá trình lập vi bằng, Thừa phát lại phải tuân thủ thủ tục lập vi bằng tại Nghị định số 08 và các pháp luật liên khác.

    Chúng ta có thể tham khảo học thuyết “quả trên cây độc” của pháp luật Hoa Kỳ. Học thuyết này có thể hiểu đơn giản là nếu trình tự thu thập chứng cứ (được xem là rễ cây, thân cây, cành cây) không tuân thủ quy định pháp luật (nghĩa là cây đã bị nhiễm độc), thì các chứng cứ được thu thập (quả của cây) cũng được xem là không hợp pháp (quả cũng bị nhiễm độc theo), bị loại trừ sử dụng. Sự loại trừ này diễn ra ở hai cấp độ.

    Ở cấp độ thứ nhất sẽ loại trừ các chứng cứ được tìm thấy, được thu thập được trực tiếp từ hành vi thu thập bất hợp pháp (tạm gọi là chứng cứ sơ phát).

    Ví dụ, khi cơ quan điều tra khám xét nhà và tìm thấy bằng chứng phạm tội ở đó, nếu việc khám xét được xác định là trái luật, thì bằng chứng phạm tội tìm được cũng bị loại trừ theo.

    Áp dụng vào việc lập vi bằng, nếu Thừa phát lại và khách hàng không được sự đồng ý của chủ sở hữu camera mà truy cập camera để lập vi bằng thì các phát hiện của Thừa phát lại là không hợp pháp, không có giá trị chứng cứ. Hoặc trong trường hợp Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận một người truy cập vào email của người khác mà không được sự uỷ quyền hợp pháp của người này thì được coi là vi phạm bí mật đời tư nên Vi bằng không có giá trị pháp lý để xem xét[1].

    Ở cấp độ thứ hai sẽ loại trừ các chứng cứ được thu thập dựa trên các chứng cứ sơ phát “đã nhiễm độc”.

    Ví dụ, khi cơ quan điều tra khám xét nhà trái phép của một người nhằm thu thập chứng cứ về hành vi cố ý gây thương tích thì tìm thấy một cuốn sổ ghi chép việc cho vay nặng lãi từ đó buộc tội anh ta có hành vi cho vay nặng lãi.

    Áp dụng vào việc lập vi bằng, chồng của khách hàng ngoại tình với người khác trong khách sạn; dù không được sự đồng ý của người chồng/phía đại diện khách sạn nhưng khách hàng đã tự ý chạy lên phòng và quay được cảnh trần truồng của chồng và người tình (bên thứ ba). Sau đó, khách hàng cung cấp video và đề nghị Thừa phát lại lập vi bằng trích xuất nội dung video. Khi đó, vi bằng của Thừa phát lại có khả năng bị bác vì người vợ đã sử dụng phương thức trái quy định pháp luật để có được video cung cấp cho Thừa phát lại lập vi bằng.

    Nếu chỉ chứng kiến các sự kiện, hành vi như yêu cầu của khách hàng thì Thừa phát lại chỉ là một người làm chứng cơ học. Tôi cho rằng, nghề Thừa phát lại đòi hỏi nhiều hơn thế. Thừa phát lại cần nắm vững các quy định pháp luật liên quan đến đối tượng mà mình làm chứng, cũng như quy định pháp luật về chứng cứ để nhận biết trường hợp nào mình có thể tiếp nhận lập vi bằng, việc lập vi bằng của mình phải giúp khách hàng đạt được mục đích sử dụng làm chứng cứ và vi bằng được lập đáp ứng các thuộc tính chứng cứ mà không bị bác bỏ.


    [1] Bản án số 29/KDTM-PT ngày 30/06/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.


    Bài viết dựa trên quan điểm cá nhân của tác giả hoặc tổng hợp từ các nguồn tin tức đã được dẫn chiếu trong bài viết. Nếu bạn cần thêm thông tin hoặc sử dụng dịch vụ Thừa phát lại, xin vui lòng liên hệ theo SĐT 0906 311 132 hoặc email blogthuaphatlai@gmail.com. Xin cảm ơn!

    Đăng nhận xét

    0 Nhận xét

    Liên hệ

    Tên

    Email *

    Thông báo *