Blog Thừa phát lại - Tôi nghĩ rằng, không dại gì mà các Thừa phát lại “bịa” ra thuật ngữ “công chứng vi bằng” để tư vấn cho khách hàng vì điều đó vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của Thừa phát lại; các Thừa phát lại nếu bị phát hiện tư vấn như vậy có thể bị tước thẻ hành nghề. Do đó, tôi cho rằng, chỉ có người ngoài ngành mới sử dụng. Họ sử dụng vì lý do gì.
Sự khác nhau giữa công chứng và vi bằng?
Luật Công chứng năm 2014 nói rằng “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”
Người dân làm thủ tục tại một Phòng Công chứng (Nguồn: Internet) |
Về vi bằng, thuật ngữ này nằm trong Nghị định 08/2020/NĐ-CP, Thông tư 05/2020/TT-BTP. Các quy định này nói rằng “Vi bằng là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của Nghị định này.”
Nếu là một người không được đào tạo trong lĩnh vực pháp luật, chắc hẳn bạn sẽ cảm thấy vẫn còn mơ hồ về các quy định này. Không sao, tôi sẽ giúp bạn diễn giải các quy định này như sau.
Về chủ thể
Công chứng phải do công chứng viên thực hiện; còn vi bằng do Thừa phát lại thực hiện. Hai chức danh này đều chỉ về những người được đào tạo pháp luật, trải qua lớp nghiệp vụ và được Bộ Tư pháp bổ nhiệm nhưng họ làm hai mảng công việc khác nhau nên có tên gọi khác nhau.
Về hình thức
Văn bản công chứng (hợp đồng, giao dịch) và vi bằng đều có hình thức là văn bản, có chữ ký, con dấu; nhưng giữa chúng cũng có sự khác biệt nhất định. Bạn đã quen với hợp đồng công chứng là một văn bản mà có hai bên ký tên, điểm chỉ trên đó; sau đó sẽ có một tờ rời là lời chứng của công chứng viên kèm theo. Công chứng viên sẽ ký tên trên cả hợp đồng của bạn lẫn tờ rời này và đóng dấu giáp lai toàn bộ. Hãy xem hình ảnh một hợp đồng công chứng điển hình dưới đây nhé.
Còn đối với vi bằng, nó không phải là một hợp đồng, nó ghi lại lời chứng đơn phương của Thừa phát lại. Nghe gì, thấy gì thì Thừa phát lại ghi lại hết vào đó và các bên có mặt cùng Thừa phát lại ký tên vào văn bản này. Ngoài ra, kèm theo vi bằng có thể có các văn bản khác như hình ảnh, đĩa vi tính hoặc một văn bản do khách hàng lập mà thừa phát lại có chứng kiến (nhưng Thừa phát lại không ký tên vào văn bản này). Bạn sẽ hình dung rõ hơn về hình hài của vi bằng nếu xem bài viết này.
Hình ảnh
Về giá trị pháp lý
Khoản 3 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 nói rằng “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.”. Còn vi bằng là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự và hành chính theo quy định của pháp luật; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 36 Nghị định 08/2020/NĐ-CP). Tôi sẽ giúp bạn cắt nghĩa các quy định này.
Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ nghĩa là không cần phải chứng minh. Bạn cầm hợp đồng mua bán nhà đã được công chứng đến văn phòng đăng ký đất đai để sang tên từ chủ nhà cũ sang tên của bạn thì họ mặc nhiên phải thực hiện mà không “quay lại” hỏi ngược bạn là hợp đồng này có thiệt không, hoặc bắt ông Công chứng viên phải chứng minh rằng hợp đồng này do chủ cũ ký tên cho bạn (việc đó chỉ xảy ra khi có một vụ tranh chấp về giá trị của văn bản công chứng và Tòa án sẽ trưng cầu giám định).
Thừa phát lại đang lập vi bằng ghi nhận buổi làm việc |
Vi bằng từng có giá trị chứng cứ?
Đọc đến đây chắc bạn đã hiểu rằng, “công chứng vi bằng” không phải là một thuật ngữ pháp lý, và không ai được giao cho quyền làm công việc này. Vậy, lý do tại sao lại một số người lại sử dụng thuật ngữ này. Bạn sẽ có câu trả lời ngay dưới đây.
Vì sao nhiều người sử dụng thuật ngữ “công chứng vi bằng”?
Khoảng năm 2012, tác giả vẫn còn là một thư ký nghiệp vụ, thuật ngữ “công chứng vi bằng” bắt đầu được sử dụng phổ biến. Tác giả cũng từng có một bài viết về tình trạng này tại thời điểm đó. Khi đó, việc các văn phòng Thừa phát lại lập vi bằng chứng kiến hành vi giao nhận tiền hoặc buổi làm việc liên quan đến việc giao dịch nhà đất chưa đủ điều kiện công chứng rất nhiều. Có thể nói, số lượng vi bằng ở mảng này chiếm hơn 80% hồ sơ vi bằng.
Tôi nghĩ rằng, không dại gì mà các Thừa phát lại “bịa” ra thuật ngữ “công chứng vi bằng” để tư vấn cho khách hàng vì điều đó vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của Thừa phát lại; các Thừa phát lại nếu bị phát hiện tư vấn như vậy có thể bị tước thẻ hành nghề. Do đó, tôi cho rằng, chỉ có người ngoài ngành mới sử dụng. Họ sử dụng vì lý do gì. Có hai khả năng xảy ra: Họ không biết rằng thuật ngữ đó không chính xác; hoặc khả năng thứ hai là họ cố tình lập lờ, gán ghép thuật ngữ công chứng và vi bằng vào làm một nhằm đánh lừa người khác. Nếu vậy, họ chính là các chủ đất, người môi giới nhà đất đang muốn bán các nhà đất chưa đủ điều kiện pháp lý để công chứng.
Tôi nghiêng về khả năng thứ hai nhiều hơn. Vì sao, bởi vì sau hơn 10 năm các báo đài, cơ quan nhà nước đã viết rất nhiều bài, thực hiện nhiều chương trình để cắt nghĩa về thuật ngữ này, rằng nó không đúng nhưng trên các zalo, facebook và các trang rao tin bất động sản, chúng ta vẫn thấy thuật ngữ này được sử dụng rất phổ biến.
TPL Đức Hoài
0 Nhận xét