Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp

Hồ sơ hành chính 15 - ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim - Học viện Tư pháp

Blog Thừa phát lại - Ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim đang sử dụng các phần đất được cha mẹ là ông Bùi Xuân Mĩ, bà Nguyễn Thị Rộ tặng cho từ năm 2003 gồm: Diện tích 102,0m2 thuộc thửa 351, tờ bản đồ số 09 (bản đồ năm 2000), phường 5, thành phố A; Diện tích 54,7m2 thuộc thửa 164, tờ bản đồ 09 (bản đồ năm 2000), phường 5, thành phố A. Hai phần diện tích đất này tiếp giáp, liền kề nhau. Trên đất có dãy nhà cấp 4 được xây dựng từ năm 2000.

Đến năm 2013, UBND thành phố A đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BM 625400 ngày 11/01/2013 cho ông Hải và bà Kim đối với phần diện tích 102,0m2.

Ngày 08/4/2016, ông Hải và bà Kim nộp hồ sơ đề nghị UBND thành phố A cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 54,7m2 đất thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ số 09 (bản đồ năm 2000).

Ngày 07/9/2016, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố A ra Thông báo số 2728/TB-CNVPĐK trả hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hải, bà Kim với lý do diện tích đất 54,7 m2 có nguồn gốc thuộc đất lấn biển, nằm ngoài ranh quy hoạch, không xác định được chức năng và không phù hợp với quy hoạch.

Sau đó, ông Hải và bà Kim đã khởi kiện Thông báo số 2728/TB-CNVPĐK nêu trên tại Tòa án. Đến ngày 05/04/2018, TAND tỉnh H ra bản án phúc thẩm số 04/2018/HC-PT, tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hải, bà Kim, buộc Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai TP. A tiếp nhận lại hồ sơ cấp Giấy chứng nhận của ông Hải, bà Kim và giải quyết các thủ tục tiếp theo quy định của pháp luật.

Sau khi có bản án phúc thẩm nêu trên, ngày 20/4/2018, ông Hải bà Kim nộp lại bộ hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đối với phần diện tích đất 54,7m2 tại UBND thành phố A. Quá thời hạn trên biên nhận hồ sơ mà chưa được cấp Giấy chứng nhận nên ông Hải, bà Kim đã yêu cầu Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố A giải trình nguyên nhân.

Ngày 14/8/2018, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố A ban hành văn bản số 4171/CNVPĐK-ĐKCG có nội dung là đã chuyển hồ sơ đến Phòng Tài nguyên và Môi trường để báo cáo Uỷ ban nhân dân thành phố A nhưng Phòng Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân thành phố A chưa phản hồi, chuyển lại hồ sơ nên Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố A chưa có căn cứ giải quyết thủ tục tiếp theo.

Không chấp nhận ý kiến phản hồi của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố A, ông Hải, bà Kim tiếp tục có Đơn khiếu nại ngày 24/8/2018 về việc chậm giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi đến Chủ tịch UBND thành phố A và Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố A.

Ngày 30/01/2019, UBND thành phố A ban hành Văn bản số 504/UBND-TNMT về việc tạm trả hồ sơ đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hải, bà Kim với lý do Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định việc giải quyết cấp giấy chứng nhận đối với các trường hợp sử dụng đất có nguồn gốc do lấn, chiếm sông hoặc biển nên UBND cần xin ý kiến hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền.

Ngày 18/3/2019, UBND thành phố A ban hành Văn bản số 1126/UBND-TNMT cho rằng UBND thành phố tạm trả hồ sơ đăng ký, cấp giấy chứng nhận là phù hợp quy định của pháp luật.

Không đồng ý với Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 và Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 nên ông Hải, bà Kim đã khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh H.

Ngày 18/4/2019, TAND tỉnh H đã ban hành Thông báo về việc thụ lý vụ án. Ngày 21/10/2019, TAND tỉnh H ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13x/2019/QĐXXST-HC.

2.          Yêu cầu của khách hàng

Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh H:

-             Tuyên hủy Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành phố A về việc tạm trả hồ sơ đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A về giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi Quang Hải.

-             Buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hải, bà Kim đối với diện tích 54,7 m2 đất thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 09 (bản đồ năm 2000), phường 5, thành phố A theo quy định của pháp luật.


 

PHẦN II:  KẾ HOẠCH HỎI CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA

Tư cách tham gia xét hỏi: Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện là ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim.

Định hướng bảo vệ: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.

Định hướng, mục đích hỏi: Để chứng minh hành vi trả hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận và việc ban hành các Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 và Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A là trái quy định pháp luật.

1.          Hỏi người bị kiện

1.1       Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hải, bà Kim đối với 54,7m2 đất tại phường 5, thành phố A thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND thành phố A đúng không?

1.2       UBND thành phố A có căn cứ Luật đất đai năm 2013, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 để giải quyết hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận của ông Hải, bà Kim không?

1.3       Theo quy hoạch sử dụng đất hiện hành thì 54,7m2 nêu trên đang có quy hoạch là đất ở đúng không?

1.4       Theo xác minh của UBND thành phố A thì diện tích đất 54,7m2 hiện có đang bị tranh chấp hay không?

1.5       Hồ sơ đề nghị Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hải, bà Kim đang thiếu điều kiện gì để được cấp Giấy chứng nhận?

1.6       Thế nào là đất bãi bồi ven sông, ven biển?

1.7       Theo ý kiến làm chứng của các hộ dân mà UBND TP. A lưu trữ thì nguồn gốc diện tích đất 54,7 m2 là do ông Bùi Xuân Mĩ, bà Nguyễn Thị Rộ (cha mẹ ông Hải) đổ đất lấn biển mà có đúng không?

1.8       Thời điểm mà ông Bùi Xuân Mĩ, bà Nguyễn Thị Rộ (cha mẹ ông Hải) đổ đất lấn biển?

1.9       Hiện nay diện tích đất trên có thuộc trường hợp thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai không?

2.          Hỏi người khởi kiện

2.1       Diện tích đất ông bà xin cấp giấy chứng nhận được ông, bà  sử dụng từ thời điểm nào?

2.2       Ông, bà được ông Bùi Xuân Mĩ, bà Nguyễn Thị Rộ chuyển giao toàn bộ 156,7m2 đất?

2.3       Quá trình sử dụng đất có bị xử phạt vi phạm hành chính về đất đai không?

2.4       Quá trình sử dụng đất có xảy ra tranh chấp liên quan đến đến phần diện tích đất xin cấp giấy chứng nhận hay không ?

2.5       Việc chậm giải quyết hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận gây thiệt hại cho gia đình ông, bà ra sao?

2.6       Ông, bà có yêu cầu Bên bị kiện bồi thường thiệt hại không?


 

PHẦN III: LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP

CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN

 

Kính thưa Hội đồng xét xử và vị đại diện Viện Kiểm sát!

Thưa các Luật sư đồng nghiệp.

Tôi là ………….. – Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Công Lý, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh, tham gia phiên tòa ngày hôm nay với vai trò là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng của tôi là ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim là người khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai, cụ thể là Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 và Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A, tỉnh H. Vụ án được TAND Tỉnh H thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, hồ sơ thụ lý số 47/2019/TLST-HC ngày 18/4/2019. Nay được đưa ra xét xử theo quyết định số 13x/2019/QĐXXST-HC ký ngày 21 tháng 10 năm 2019.

Thưa Hội đồng xét xử!

Qua phần trình bày của phía người khởi kiện, người bị kiện và phần xét hỏi công khai tại phiên tòa đã thể hiện rõ nội dung của vụ án ngày hôm nay. Tôi xin phép không tóm tắt lại nội dung trong vụ án này. Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và qua phần hỏi đáp tranh tụng công khai tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, tôi xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền lợi người khởi kiện như sau:

I.Về tố tụng

Ông Hải, bà Kim đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật. Cụ thể:

1.          Về đối tượng khởi kiện

Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 và Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A, tỉnh H là những quyết định hành chính nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể là hồ sơ cấp Giấy chứng nhận, một hoạt động trong quản lý hành chính nhà nước và áp dụng đối với đối tượng cụ thể là ông Hải và bà Kim. Do đó, đây là quyết định hành chính thuộc đối tượng khiếu kiện hành chính quy định tại khoản 1, 2 Điều 3, khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015.

2.          Về thời hiệu khởi kiện

Ngày 18/3/2019, UBND thành phố A ban hành Văn bản số 1126/UBND-TNMT. Ngày 04/04/2019, ông Hải, bà Kim khởi kiện đến Tòa án. Như vậy, căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015 thì tại thời điểm khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

3.          Về chủ thể

Ông Hải, bà Kim là chủ thể có quyền lợi bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định hành chính và không đồng ý với quyết định hành chính nên có quyền khiếu kiện hành chính với tư cách là người khởi kiện. Ủy ban nhân dân thành phố H là chủ thể ban hành quyết định hành chính bị khởi kiện nên phải tham gia phiên tòa với tư cách người bị kiện theo khoản 9 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015.

4.          Về thẩm quyền thụ lý

Căn cứ theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 3 và khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015 thì các yêu cầu của người khởi kiện về việc hủy Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 và Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 là khiếu kiện quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Căn cứ vào khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính 2015 thì Tòa án nhân dân tỉnh H thụ lý, giải quyết vụ án này là đúng thẩm quyền.

Từ những nội dung trên thì tôi cho rằng, việc Tòa án nhân dân tỉnh H thụ lý vụ án là phù hợp quy định pháp luật.

II.Về nội dung

Ông Hải, bà Kim đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh H hủy bỏ Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 và Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A là có cơ sở bởi các văn bản này vi phạm hình thức lẫn nội dung, cụ thể như sau:

1.          Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành phố A

Thứ nhất, văn bản này được ban hành theo trình tự, thủ tục trái quy định của pháp luật.

Căn cứ Điều 61 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 40 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP) thì thời gian thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 30 ngày. Giấy tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả ngày 20/4/2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố A cũng thể hiện nội dung thời gian nhận kết quả là ngày 06/06/2018. Căn cứ khoản 5 Điều 60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết.

Tuy nhiên, hết ngày 06/06/2018 nhưng Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai hoặc Ủy ban nhân dân thành phố A không có động thái nào để trả lời hồ sơ cho ông Hải, bà Kim. Phải chờ đến khi ông Hải và bà Kim có Đơn khiếu nại thì Ủy ban nhân dân thành phố A mới ban hành Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 (tức hơn 09 tháng sau khi nộp hồ sơ) để trả lời.

Ngoài ra, nội dung của Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 là tạm trả hồ sơ mà không có nội dung từ chối cấp Giấy chứng nhận, lý do từ chối theo quy định tại Điều 60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.

Như vậy, Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 được ban hành là trái với quy định về trình tự, thủ tục quy định tại Điều 60, Điều 61 Nghị định 43/2014/NĐ-CP.

Thứ hai, nội dung văn bản là trái quy định pháp luật.

Khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai năm 2013 thì Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”. Căn cứ quy định này thì ông Hải, bà Kim đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể:

Tại Phiếu lấy ý kiến của Khu dân cư ngày 21/06/2016 và xác nhận của UBND phường 5, thành phố A ngày 13/7/2016 thì diện tích đất đề nghị cấp Giấy chứng nhận đã được ông Hải, bà Kim sử dụng ổn định từ năm 2003 (tức trước ngày 01/7/2004) thông qua nhận chuyển giao từ cha mẹ là ông Bùi Xuân Mĩ, bà Nguyễn Thị Rộ. Và cũng trong các văn bản này, những người có liên quan, UBND phường 5 đều xác nhận là phần đất này không có tranh chấp.

Quyết định số 1352/QĐ-UBND ngày 27/6/2014 của UBND tỉnh H về việc phê duyệt quy hoạch sử dụng đất chi tiết đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất chi tiết 05 năm kỳ đầu (2011-2015) của 16 phường và xã phát triển đô thị Long Sơn – thành phố A, tỉnh H, Bản đồ kèm Quyết định số 653/QĐ-UBND ngày 02/04/2014 của UBND tỉnh H và Văn bản số 2013/TNMT-QHKH của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố A đều khẳng định thì phần diện tích đất ông Hải, bà KIm đang đề nghị cấp giấy chứng nhận nằm trong quy hoạch đất ở tại đô thị.

Quá trình sử dụng đất, ông Hải bà Kim không bị xử phạt vi phạm hành chính về đất đai. Ngày 29/02/2004, ông Hải có bị Chủ tịch UBND TP.A bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng, quản lý nhà và hạ tầng kĩ thuật, tuy nhiên hành vi của ông Hải không phải vi phạm hành chính về đất đai mà là về xây dựng.

Như vậy, ông Hải, bà Kim đã sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01/07/2004, không có vi phạm pháp luật về đất đai, đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị. Do đó, ông Hải, bà Kim đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật đất đai 2013, khoản 2 Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP.

Ngoài ra, UBND thành phố A xác định nguồn gốc đất là đất lấn, chiếm sông biển nên cần phải xin hướng dẫn là không phù hợp với bất kỳ quy định nào của pháp luật đất đai hiện hành. Căn cứ theo quy định tại Điều 5 Luật đất đai 1993 thì Nhà nước khuyến khích người sử dụng đất lấn biển để mở rộng diện tích đất. Theo quy định trên, hoạt động lấn biển là một hoạt động được nhà nước khuyến khích và hoàn toàn khác biệt với hoạt động lấn chiếm đất là vi phạm pháp luật đất đai được quy định tại Điều 6 Luật đất đai 1993 đồng thời khác hoàn toàn với phạm trù đất bãi bồi ven sông, ven biển quy định tại Điều 48 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.

Trên cơ sở những phân tích nêu trên thì chúng tôi khẳng định việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp của ông Hải, bà Kim đã được quy định rất rõ ràng, cụ thể tại tại Luật đất đai năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Việc UBND TP. A trì hoãn, kéo dài, từ chối việc cấp Giấy chứng nhận của ông Hải, bà Kim là trái quy định của pháp luật.

2.          Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 về giải quyết đơn khiếu nại của ông Hải, bà Kim

Thứ nhất, Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 được ban hành với thể thức trái quy định của pháp luật.

Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật khiếu nại 2011 thì nghiêm cấm việc Ra quyết định giải quyết khiếu nại không bằng hình thức quyết định”. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân thành phố A đã ban hành một văn bản không đúng về thể thức của một quyết định để giải quyết khiếu nại là vi phạm điều cấm quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật khiếu nại 2011.

Thứ hai, Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 được ban hành trái thẩm quyền.

Đối tượng khiếu nại là hành vi hành chính của Chủ tịch UBND thành phố A về việc chậm cấp Giấy chứng nhận. Căn cứ Điều 18 Luật khiếu nại năm 2011 thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại là Chủ tịch UBND thành phố A. Do đó, việc UBND thành phố A ban hành văn bản như thể thức, nội dung tại Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019  là trái thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 có nội dung trái quy định của phpas luật.

Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 khẳng định Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 được ban hành đúng pháp luật. Tuy nhiên, như đã phân tích trên đây, Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 được ban hành trái pháp luật. Do đó, nội dung Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 cũng trái pháp luật.

Từ những phân tích ở trên, chúng tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b, điểm c khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính 2015, chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện gồm:

-             Tuyên hủy Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND thành phố A về việc tạm trả hồ sơ đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND thành phố A về giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi Quang Hải.

-             Buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hải, bà Kim đối với diện tích 54,7 m2 đất thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 09 (bản đồ năm 2000), phường 5, thành phố A theo quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người khởi kiện. Kính mong Hội đồng xét xử quan tâm xem xét để có phán quyết công minh.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

Trân trọng!

Link tải bài thu hoạch: Tại đây (xem trong phần mô tả video)

Xin chào! Tôi là Đức Hoài - một Thừa phát lại. Do đây là một trang blog nên tôi cố gắng sử dụng các từ ngữ đơn giản, dễ hiểu trong các bài viết và không nhất thiết phải giống với thuật ngữ khoa học pháp lý, văn bản pháp luật. Bài viết dựa trên quan điểm cá nhân của tác giả hoặc tổng hợp từ các nguồn tin tức đã được dẫn chiếu trong bài viết. Nếu bạn cần thêm thông tin hoặc sử dụng dịch vụ Thừa phát lại, xin vui lòng liên hệ theo SĐT 0906 311 132 hoặc email blogthuaphatlai@gmail.com. Xin cảm ơn!

Đăng nhận xét

0 Nhận xét

Liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *